Kỹ thuật nuôi Cua biển
Cua biển có thể nói là một trong những loài thủy sản có giá trị dinh dưỡng và kinh tế cao. Trong những năm gần đây mô hình nuôi cua biển ở tỉnh Bạc Liêu nói riêng và các tỉnh có mô hình nuôi cua biển nói chung chủ yếu được nuôi theo hình thức nuôi quãng canh cải tiến kết hợp tôm sú - cua - cá. Ở mô hình này cua biển được thả nuôi với mật độ thấp (khoảng 1con/10 m2), tỷ lệ sống của cua biển theo thống kê hàng năm chỉ đạt khoảng từ 5 - 10%, chính vì vậy nên năng suất và hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi cua biển thương phẩm này chưa cao và chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường.
Để
giúp cho người dân nuôi cua biển có thể áp dụng những tiến bộ kỹ thuật vào sản
xuất và những người dân nuôi tôm sú, cá kèo công nghiệp - bán công nghiệp
(CN-BCN) không hiệu quả có thể chuyển sang đối tượng nuôi mới nhằm nâng cao hiệu
quả kinh tế của gia đình cũng như sản lượng cua biển thương phẩm chúng tôi xin
giới thiệu với bà con nông dân "quy trình nuôi cua biển CN-BCN sử dụng chế
phẩm sinh học 3 giai đoạn".
Chọn địa điểm nuôi: (áp dụng cho cả 3 giai đoạn): Ao nuôi cua tốt nhất nên có các đặc điểm như: Gần sông, có nguồn nước dồi dào và dễ cấp thoát nước. Nền đáy ao, đầm nên là loại đất thịt pha sét hay cát, không quá nhiều bùn nhão (lớp bùn không quá 15 cm). Đất và nước ít bị nhiễm phèn, pH nước từ 7,5 - 8,5; độ mặn từ 10 - 30‰ và nhiệt độ từ 25 - 35oC. Ao nuôi tốt nhất nên có diện tích từ 2.000 m2 - 5.000 m2, độ sâu 1,5 - 1,8 m với bờ có chiều rộng đáy tối thiểu 4m, mặt 2 - 3 m và cao 1 - 1,5 m và cao hơn mức triều cường ít nhất 0,5 m.
Cải tạo ao: (áp
dụng cho cả 3 giai đoạn nuôi): Sau mỗi vụ nuôi cần phải ủi hoặc nạo vét sạch
bùn đáy ao, gia cố bờ ao. Trường hợp bùn ao không nhiều khoảng 10 cm, bón vôi
CaO 15 - 20 kg/1000 m2, phơi đáy ao 2 - 3 ngày sau đó tiến hành bơm nước từ ao
lắng vào ao nuôi (tốt nhất nên bơm nước qua túi vải lọc). Tránh lấy nước trong
các trường hợp sau: Nguồn nước nằm trong vùng có dịch bệnh, nước có hiện tượng
phát sáng vào ban đêm, nước có nhiều váng bọt, màng nhầy, có nhiều phù sa đen
lơ lửng. Không lấy nước khi thuỷ triều đang lên, nên lấy nước khi nước bắt đầu
bình để hạn chế đưa các chất phù sa lơ lửng vào ao, tốt nhất nên lấy nước vào
ao lắng trước khi cấp vào ao nuôi. Sau khi bơm nước vào ao nuôi khoảng 3 - 5
ngày thì tiến hành diệt tạp. Để diệt các loài cá tạp và giáp xác trong ao có thể
sử dụng: Saponin: 15 - 20 kg/1000 m3 nước. (nếu độ mặn > 15‰), dây thuốc cá:
8 -10 kg/1000 m3 nước (nếu độ mặn < 15‰). Xung quanh bờ rào kỹ bằng đăng
tre, tấm nhựa, lưới cước...và đặt hơi nghiêng vào ao một góc 450, cao khoảng 80
– 100 cm sao cho cua không thoát ra được. Ao có cống cấp và thoát để cấp thoát
nước cho ao, trước cống nên có 2 lớp đăng hay lưới chắn cẩn thận. Bố trí chà
khô thành từng bó chiếm từ 1/3 - 2/3 diện tích ao nuôi để làm giá thể trú ẩn
khi cua lột (tránh tình trạng cua ăn thịt lẫn nhau gây hao hụt). Kiểm tra các yếu
tố môi trường: pH: 7,5 - 8,5, độ kiềm: 100 - 120 mg/l, độ mặn: 10‰ -30‰. Việc cải
tạo và xử lý nước ban đầu là khâu quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả
của ao nuôi: Tạo cho vật nuôi có được một nền đáy ao sạch, làm tăng và ổn định
lượng oxy hoà tan trong nước, ổn định chất lượng nước và làm giảm các chất độc
trong nước, ổn định nhiệt độ ao, hạn chế tảo sợi, tảo đáy phát triển, hạn chế
các loại vi khuẩn gây bệnh. Khi đạt các yêu cầu thì tiến hành thả giống.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét